THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
VÀ CƠ HỘI ỨNG DỤNG KINH DOANH
May mắn được sống trong thế kỷ XXI, mọi người chúng ta đang
được tận mắt chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ: một
ngày bằng cả một năm, một năm bằng cả ngàn năm trước đây. Tất cả chúng ta đang được
trải nghiệm một trong những thay đổi quan trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày
- một sự vận động lớn lao chưa từng thấy - mọi sự vận động của toàn xã hội dựa
trên nên tảng Internet. Theo Tổ chức Thống kê toàn cầu về Internet (Internet World
Statistics) đến cuối năm 2.015 đã có trên ba tỷ người dùng Internet trên toàn
thế giới. Con số người dùng Internet sử dụng điện thoại di động (cellphone)
truy cập Internet hàng ngày cũng đã vượt quá hai tỷ người. Ngay cả số người dùng
máy tính xách tay (desktop) cũng gia tăng rất lớn. Và các thiết bị cung ứng để kết
nối Internet cũng ngày càng rẻ phù hợp với túi tiền của hầu hết mọi người.
Trước đây, việc trao đổi dữ liệu điện tử và thư tín điện tử
(e-mail) đã được nhiều cá nhân và các công ty trên thế giới thực hiện trên các
mạng nội bộ (intranet) của mình, thí dụ như, việc tự động hóa trong ngành công
nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành và phát triển, chẳng hạn như quá
trình xử lý séc ra đời vào những năm 60 của thế kỷ XX, tiếp theo là quá trình xử
lý thẻ tín dụng và chuyển tiền điện tử. Tiếp đó là sự ra đời của các trạm giao
dịch tự động cho phép khách hàng có thể thực hiện giao dịch và truy cập trực tiếp
tới các thông tin về tài khoản của mình. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều
hệ thống giao dịch tự động được đưa vào hoạt động với việc sử dụng các thiết bị
giao dịch tự động (ATMs - Automatic Teller Machines) và các thiết bị điểm bán
hàng (Point-of-Sale machines). Khái niệm chuyển tiền số hóa hay chuyển tiền điện
tử giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính ra đời và phát triển cho đến
ngày nay.
Tuy nhiên, khi nói tới sự hình thành và phát triển của
thương mại điện tử, trước hết người ta gắn nó với sự ra đời và phát triển của
Internet. Internet là mạng lưới máy tính rộng lớn gồm nhiều mạng máy tính nằm
trải rộng khắp toàn cầu; từ các mạng lớn và chính thống như mạng của các trường
đại học, các viện nghiên cứu, các công ty lớn như Microsof), AT&T, Digital
Equipment,... đến các mạng nhỏ và không chính thống khác (của các nhóm hoặc của
một cá nhân nào đó). Ngày càng có nhiều mạng máy tính ở mọi nơi trên thế giới
được kết nối với Internet.
Thế kỷ XXI đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ và ứng dụng của công
nghệ thông tin trong tất cả các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là thương mại điện
tử và marketing điện tử (e-marketing). Dù chỉ được áp dụng phổ biến trên thế giới
vài thập kỷ gần đây nhưng các ứng dụng của thương mại điện tử và marketing điện
tử đang thúc đẩy và xúc tiến mạnh mẽ quá trình mua bán hàng hóa, không những
trên những thị trường ảo (Virtual), mà ngay cả trên những thị trường truyền thống
(traditional market). Ngày nay, tất cả các công ty muốn thành công trên thị trường
toàn cầu đều phải chú trọng đến thương mại điện tử và marketing điện tử. Đơn giản
là vì thương mại điện tử và marketing điện tử là công cụ hiệu quả và nhanh
chóng nhất giúp công ty và sản phẩm của họ tiếp cận với người tiêu dùng toàn cầu.
Hộp 1.1: Cơ hội ứng
dụng của TMĐT và marketing điện tử.
Trong thời đại ngày nay, sẽ là một sai lầm lớn, nếu các nhà
kinh doanh không quan tâm đến marketing mối quan hệ, marketing truyền thông xã
hội, và đặc biệt là thương mại điện tử và marketing điện tử để tận dụng cơ hội
do Internet mang lại mà có được thành công trong cạnh tranh. Suốt một thập kỷ qua,
thương mại điện tử và marketing điện tử đã và đang trở thành một công cụ tiên
phong để có được thành công trên Internet.
Thực tế là, Internet đã tạo ra thương mại
điện tử và marketing điện tử (e-marketing) đưa người mua và người bán lại gần
nhau hơn; và thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn bao giờ hết.
Chỉ với vài giây đồng hồ và vài cú nhấn chuột, Internet cách mạng hóa toàn bộ
các khía cạnh của cuộc sống. Nhiều thuật ngữ mới đã ra đời như shopping blog
(blog mua sắm), RSS (really simple syndication), - định dạng dữ liệu theo chuẩn
XML, giúp chia sẻ tin tức trên web, VoIP (voice over Internet protocol) - giao
thức thoại Internet và XML (extensive markup language) - ngôn ngữ đánh dấu mở rộng.
Nhiều từ ngữ mang ý nghĩa mới, mà trước đó vài năm khó ai hình dung ra: web (mạng),
network (mạng lưới), surfer (lướt net), server (máy chủ), banner (dải quảng
cáo), browser (xem lướt - trình duyệt), tweet (câu trạng thái trên trang Twitter,
twitter (tiểu blog), Online (trực tuyến), offline (ngoại tuyến),...
Kinh doanh điện tử (e-business) chỉ hình thức kinh doanh qua
Internet, thị trường ảo hoạt động 24/24 h, cung cấp gần như mọi thứ, ở bất kỳ
đâu, cho tất cả mọi người, bao gồm quần áo, đồ ăn, dịch vụ giải trí, thuốc và
thông tin,... Bạn có thể thanh toán hóa đơn điện thoại, đặt tour du lịch, đăng
hồ sơ cá nhân lên bảng tin điện tử của nhà tuyển dụng, hoặc mua một chiếc xe đã
qua sử dụng - với mức giá có thể rẻ hơn so với mua trực tiếp.
Người làm marketing trên Internet có thể tiếp cận khách hàng
cá nhân và khách hàng tổ chức mục tiêu trên khắp thế giới, thông qua máy tính
và nhiều công nghệ truyền thông khác nhau. Chỉ trong vài năm trở lại đây, đã có
hàng trăm ngàn công ty lớn, nhỏ kết nối với các kênh thương mại điện tử. Quy mô
và phạm vi của hoạt động kinh doanh điện tử khó có thể coi nhẹ. Kinh doanh điện
tử không chỉ đơn thuần là mua bán hàng hóa, dịch vụ. Một số khảo sát cho thấy
trang web là môi trường trung gian số một, cung cấp thông tin về sản phẩm mới,
ưu việt hơn hẳn catalog, quảng cáo trên báo và triển lãm thương mại. Internet
cho phép các nhà bán lẻ và nhà cung cấp trao đổi những thông tin quan trọng, cải
thiện hoạt động cung ứng và phân phối tổng thể, giảm chi phí và gia tăng lợi
nhuận. Ngày càng có nhiều công ty Việt Nam tiếp nhận thông tin và tin tức từ
blog, thay vì các phương tiện truyền
thống như truyền hình và báo giấy. Do đó, ngày càng nhiều công ty sử dụng blog
để tạo diện mạo con người cho mình và truyền thông trực tiếp tới khách hàng.
Hiện nay, kinh doanh điện tử được dùng để
mô tả các hoạt động đa dạng, diễn ra trên các ứng dụng Internet như e-mail và
giỏ hàng ảo (Virtual shopping cart). Hoạt động kinh doanh điện tử có thể được
chia thành năm nhóm lớn như sau: (1) bán lẻ điện tử (e-tailing) hay còn gọi là
cửa hàng ảo (Virtual storefront) trên các trang web; (2) giao dịch giữa các
khách hàng tổ chức; (3) trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange -
EDI), trao đổi giữa các khách hàng tổ chức; (4) e-mail, tin nhắn nhanh, blog,
podcast,... cũng như việc sử dụng chúng làm phương tiện tiếp cận khách hàng hiện
tại và triển vọng và (5) thu thập, sử dụng thông tin cá nhân, thông tin sản phẩm
và các thông tin khác qua các mối liên hệ trên web.
Thành phần mà người làm thương mại điện tử và marketing đặc
biệt quan tâm trong hoạt động kinh doanh điện tử là marketing điện tử
(electronic marketing hay e-marketing), quá trình chiến lược nhằm tạo ra, phân
phối, xúc tiến và định giá hàng hóa cũng như dịch vụ tới thị trường mục tiêu,
thông qua Internet hoặc các công cụ kỹ thuật số như điện thoại thông minh.
Marketing điện tử là phương tiện để thực hiện kinh doanh điện tử. Một số thí dụ
về marketing điện tử cụ thể như các hoạt động sau:
• Xem video mới nhất của ban nhạc mà mình yêu thích trên
YouTube;
• Đặt vé máy bay tới Hà Nội dự hội chợ việc làm qua trang
timvieclam.com;
• Tìm hiểu máy ảnh kỹ thuật số Canon trên trang vinawebdesign.vn,
rồi đặt hàng trên trang mạng Peacesoft.net; và là sinh viên bạn có thể:
• Truy cập trang nghiên cứu thị trường InfoQ Việt Nam thông
qua mạng máy tính ở trường, cho phép bạn làm bài tập và tìm kiếm thông tin về
các căn hộ cho thuê.
Ứng dụng công cụ kỹ thuật này vào hoạt động marketing giúp
giảm đáng kể chi phí, đồng thời gia
tăng sự hài lòng của khách hàng, bằng cách tăng tốc độ và tính hiệu quả của các
tương tác marketing. Cũng như kinh doanh điện tử là một trong những chức năng
chính của Internet, marketing điện tử là thành phần không thể thiếu của hoạt động
kinh doanh điện tử.
Có liên quan mật thiết nhưng hẹp hơn marketing điện tử là marketing
trực tuyến (online marketing). Trong khi marketing điện tử bao gồm các công nghệ
kỹ thuật số từ DVD đến quầy tương tác không cần máy tính, marketing trực tuyến
lại chỉ những hoạt động marketing kết nối người mua và người bán qua phương tiện
điện tử, thông qua các hệ thống máy tính tương tác.
Các cơ hội trong thương mại điện tử cũng như hoạt động marketing
điện tử mang lại vô số cơ hội tiếp cận người tiêu dùng, thí dụ như:
• Tiếp cận toàn cầu
(global reach): Mạng Internet xóa bỏ mọi giới hạn và ngăn cách về địa lý của hoạt
động kinh doanh cục bộ, và mang lại cho các công ty nhỏ của Việt Nam một lượng
công chúng đông đảo hơn. Có một thời ở Việt Nam, các nhà làm phim độc lập rất
khó thiết lập quan hệ với các nhà phân phối truyền thống của Nhà nước chỉ mua
quyền chiếu phim và tiến hành quảng bá nếu thấy phù hợp (hầu hết là là phim đặt
hàng vào dịp lễ lạt để tuyên truyền). Vì vậy, đối tượng khán giả của các hãng
phim tư nhân này rất hạn chế. Thế nhưng, hiện nay, Internet cho phép các nhà
làm phim cá nhân tự tổ chức chiếu phim, gửi thông điệp quảng bá tới những cộng
đồng trực tuyến quan tâm và bán DVD trực tiếp trên trang web.
• Khả năng marketing
theo yêu cầu (personalization). Martin, hãng xe đạp chất lượng cao có uy
tín của Việt Nam theo sản xuất đơn đặt hàng riêng, sử dụng trang web để giới
thiệu với những người đi xe đạp quy trình thu thập thông tin mở rộng, giải
thích các tiêu chuẩn kỹ thuật và kích thước theo quy định, đưa ra lịch trình thực
hiện đơn đặt hàng và cung cấp phiếu đặt hàng để khách hàng Việt Nam có thể in
ra và gửi tới cửa hàng bán lẻ mà họ lựa chọn.
• Marketing tương tác
(interactive marketing). Sử dụng khái niệm có tên gọi marketing tương tác (interactive
marketing), HTV9 hợp tác với trang mạng xã hội truyền thông MCV cùng với các
chuyên gia ẩm thực phát sóng lúc 16h30 thứ bảy hàng tuần, tích hợp các chương
trình TV giới thiệu đến khán giả những địa chỉ nhà hàng đáng tin cậy trong
chuyên mục Quán Ngon Cuối Tuần.
• Marketing đúng thời điểm (right-time marketing). Các nhà
bán lẻ trực tuyến, như Saigoncom.vn, có thể cung cấp sản phẩm, đặc biệt là các
loại sách học thuật chuyên sâu về: kinh tế, tài chính, ngân hàng, kế toán, quản
trị,... cho sinh viên, giảng viên hay các nhà nghiên cứu ở Việt Nam và các loại
sách khác cho độc giả và du học sinh Việt Nam khắp nơi trên thế giới vào đúng
thời điểm, và tại đúng địa điểm mà khách hàng mong muốn.
• Marketing tích hợp
(integrated marketing). Internet cho phép phối hợp tất cả các hoạt động xúc tiến
và truyền thông để tạo ra một thông điệp định hướng khách hàng nhất quán.
Ngoài các lợi ích kể trên, sự hiện diện trực tuyến hiệu quả
có thể nâng cao kết quả của các hoạt động marketing truyền thống. Các cuộc khảo
sát người tiêu dùng Việt Nam gần đây cho thấy, dù mua hàng trực tuyến hay trực
tiếp, thì có hơn 50% khách hàng vẫn tiến hành tìm hiểu về sản phẩm trên mạng
trước khi mua. Trong một cuộc khảo sát gần đây, 60% người mua sắm trực tuyến
cho biết việc tìm hiểu về sản phẩm sẽ tiếp tục là yếu tố then chốt để ra quyết
định mua hàng trong năm tới, và 1/3 sẵn sàng từ bỏ các trang web bán hàng không
hoạt động tốt. Do vậy, Internet có sức mạnh định hình hành vi khách hàng, mặc
dù đó hiếm khi là con đường duy nhất mà người tiêu dùng sử dụng để tìm kiếm
thông tin về sản phẩm. Trong khi đó, với doanh thu bán hàng trực tuyến tăng hơn
10% mỗi năm, còn doanh thu từ các cửa hàng bán lẻ không đổi, các cửa hàng truyền
thống sẽ phải cạnh tranh lại bằng cách mang đến những tùy chọn bổ sung mà người
bán hàng trực tuyến không thể cung cấp.
Mô hình kinh doanh
trên web
Ngày nay, gần như tất cả mọi công ty đều có trang web riêng.
Các trang web này có thể cung cấp thông tin tổng quan, hỗ trợ mua hàng trực tuyến
và các chương trình khuyến mại như các trò chơi, các cuộc thi, phiếu giảm giá
khi mua hàng trực tuyến. Chỉ cần nhập địa chỉ Internet của công ty, trang chủ của
trang web sẽ xuất hiện trên màn hình máy tính của bạn.
Có hai kiểu trang
web cho công ty.
Nhiều công ty xây dựng trang web công ty (corporate website) để tăng sự hiện diện,
quảng bá sản phẩm và cung cấp thông tin cho các bên quan tâm. Thay vì trực tiếp
bán hàng hóa và dịch vụ, các trang này tìm cách lấy thiện cảm của khách hàng,
và hỗ trợ hoạt động marketing của các trung gian phân phối. Ví dụ, trang web của
Burger King Việt Nam cung cấp thông tin về thực đơn, thành phần dinh dưỡng, vị
trí cửa hàng, video và các thông tin xúc tiến khác. Ngoài việc sử dụng trang web
để truyền thông về sản phẩm và xây dựng quan hệ với khách hàng, nhiều công ty
còn sử dụng trang web của công ty cho nhiều mục đích khác, như công bố thông
tin tài chính cho nhà đầu tư, tạo điều kiện để nhân viên triển vọng nộp đơn tuyển
dụng trực tuyến và cung cấp kênh truyền thông cho khách hàng, cũng như các bên
quan tâm khác qua e-mail, blog và diễn đàn trực tuyến.
Mặc dù cũng cung cấp thông tin về lịch sử phát triển, sản phẩm,
địa điểm, cơ hội nghề nghiệp và thông tin tài chính của công ty, song mục đích
của trang web marketing (marketing website) là tăng cường hoạt động mua hàng của
khách truy cập. Ví dụ, trang web của chuỗi cafe Trung Nguyên có mọi thông tin
có thể tìm thấy trên trang web công ty, nhưng ngoài ra trang này còn có một cửa
hàng trực tuyến, bán tất cả mọi thứ từ đủ loại cà phê, đến máy pha cà phê.
Nhiều trang web marketing cố gắng lôi kéo người tiêu dùng
tham gia những tương tác đưa họ đến gần hơn với hoạt động thuyết minh sản phẩm,
tham quan thử nghiệm, mua hàng và các kết quả marketing khác. Một số trang web
marketing như Canon.com có hệ thống rất phức tạp. Khách truy cập có thể so sánh
các mẫu máy ảnh kỹ thuật số và các sản phẩm khác của công ty, lựa chọn ba sản
phẩm mỗi lần để so sánh tính năng chi tiết, cũng như tìm kiếm dịch vụ đăng ký
và hỗ trợ sản phẩm, đăng ký nhận tin tức và các chương trình khuyến mại, hay
tìm vị trí của một đại lý Canon. Tuy nhiên, không phải tất cả các sản phẩm đều có
thể bán trên Internet. Đặc biệt là, với những sản phẩm phức tạp hay những sản
phẩm đòi hỏi phải thuyết minh hoặc thử nghiệm sản phẩm, hình thức bán hàng trực
tiếp có lẽ sẽ hiệu quả hơn. Một số công ty hiện cũng phát triển quan hệ với các
đối tác, như đại lý bán hàng và đại lý nhượng quyền thương hiệu bán sản phẩm
cho họ như Phở 24, cà phê Trung Nguyên,...
Phở 24 là một chuỗi nhà hàng Việt Nam thuộc công ty Việt
Thái Quốc Tế (VTI), chủ sở hữu của Highlands Coffee, Hard Rock Cafe, Emporio
Armani, Swarovski, Aldo, La Vie En Rose, Debenhams, Coorslight, Orangina...
Nhờ biết truyền thông xã hội trực tuyến và phát triển quan hệ
với các đối tác, như đại lý bán hàng và nhượng quyền thương hiệu mà Phở 24 đã mở
được 70 cửa hàng với 70% các cửa hàng nội địa tọa lạc tại các tỉnh thành lớn
như: Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Dương, và 30% các cửa hàng quốc
tế tại Jakarta (Indonesia), Manila (Philippines), Phnom Penh (Campuchia), Ma
Cao - Hồng Kông và Tokyo (Nhật Bản). Phở 24 có kế hoạch dùng web marketing trực
tuyến để mở thêm cửa hàng ở tất cả các thành phố lớn của Việt Nam cũng như tại
thị trường nước ngoài, nơi có số lượng lớn người châu Á.
Tác động của TMĐT không chỉ dừng lại ở việc tạo ra một kênh
bán hàng trên web, mà còn tạo cơ sở thiết lập một cấu trúc kinh doanh mới. Dường
như đây là một cuộc cách mạng mang đến vô vàn những cơ hội cũng như ẩn chứa nhiều
rủi ro. Vì thế các công ty Việt Nam nhạy bén cần nhận thức được điều này, phải
không ngừng phát triển những sản phẩm và dịch vụ thương mại điện tử, Internet của
mình và đi trước các mô hình kinh doanh đã lỗi thời của các đối thủ cạnh tranh.
Lưu ý là cạnh tranh hiện nay không chỉ về sản phẩm, dịch vụ mà còn cả về mô
hình kinh doanh. Và có lẽ lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm nhất, sôi động nhất hiện
nay là trên web.
I. Thương mại điện
tử (Electronic commerce - EC) là gì?
Thương mại điện tử là một khái niệm dùng để mô tả quá trình
giao dịch mua bán sản phẩm, dịch vụ và thông tin qua mạng máy tính, chủ yếu là
Internet. Thương mại điện tử còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như:
“thương mại trực tuyến - online trade”, “thương
mại không giấy tờ - paperless commerce”, hay “kinh doanh điện tử (e-business)”.
Dù được hiểu lẫn lộn và sử dụng thay thế cho nhau, “thương mại điện tử” vẫn là một tên gọi phổ biến hơn cả. Thí dụ
nhu, một số ứng dụng trong giao dịch của BC là mua và bán cổ phiếu và vé máy
bay qua mạng Internet, đang phát triển rất nhanh chóng, doanh số của nó đã vượt
quá giao dịch ngoại tuyến (offline) truyền thống. Tuy nhiên, EC không chỉ đơn
thuần là mua và bán, mà nó còn là phương tiện để giao dịch điện tử, chia sẻ và
khám phá; nó có thể là giáo dục điện tử (e-learning), chính phủ điện tử
(e-government), mạng xã hội (social netvvorks), và... vô vàn các ứng dụng khác
nữa.
1.1. Khái niệm
TMĐT theo nghĩa hẹp
Theo quan điểm hẹp, thương
mại điện tử (EC) là quá trình mua, bán, chuyển giao trao đổi sản phẩm, dịch vụ
và thông tin qua mạng máy tính, chủ yếu là Internet và mạng nội bộ (intranets).
Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử bắt đầu bằng việc các
công ty sử dụng các phương tiện điện tử và mạng Internet để mua bán hàng hóa, dịch
vụ của công ty mình, các giao dịch có thể giữa công ty với công ty (B2B) hoặc
giữa công ty với khách hàng cá nhân (B2C), và cá nhân với nhau (C2C) v.v...
1.2. Khái niệm
TMĐT theo nghĩa rộng
Theo nghĩa rộng, thương mại điện tử là việc sử dụng các
phương tiện điện tử để làm thương mại kinh doanh. Nói cách khác, thương mại điện
tử là thực hiện các quy trình cơ bản và các quy trình khung cảnh của các giao dịch
thương mại bằng các phương tiện điện tử, cụ thể là trên mạng máy tính và viễn
thông một cách rộng rãi, ở mức độ cao nhất có thể.
Các quy trình cơ bản của một giao dịch thương mại gồm: tìm
kiếm (mua gì, ở đâu,..), đánh giá (có hợp với mình không, giá cả và điều kiện
ra sao,..), giao hàng, thanh toán, và xác nhận.
Các quy trình khung cảnh của một giao dịch thương mại gồm:
diễn tả (mô tả hàng hóa, dịch vụ, các điều khoản của hợp đồng), hợp thức hóa
(làm cho thỏa thuận là hợp pháp), uy tín và giải quyết tranh chấp. Tất nhiên có
những quy trình không thể tiến hành trên mạng như việc giao hàng hóa ở dạng vật
thể (máy móc, thực phẩm,...), song tất cả các quá trình của giao dịch nếu có thể
thực hiện trên mạng thì đều có thể tiến hành bằng các phương tiện điện tử.
Tuy nhiên trong thực
tế, khái niệm EC thường được hiểu lẫn lộn với khái niệm kinh doanh điện tử
(e-business).
Thuật ngữ thương mại điện tử thường được nhiều người hiểu chỉ là các giao dịch
mua bán giữa các đối tác kinh doanh; họ đồng nghĩa EC với e-trade. Tuy nhiên,
hiểu như vậy là quá hẹp, không chuyển tài trọn vẹn ý nghĩa của từ này. Vì thế,
các chuyên gia thương mại điện tử đã dùng một khái niệm mang ý nghĩa rộng hơn
là kinh doanh điện tử (e-business).
1.3. Kinh doanh điện
tử (e-business)
Kinh doanh điện tử là một thuật ngữ mang ý nghĩa rộng hơn của
EC, đó không chỉ là quá trình mua và bán mà còn là phục vụ khách hàng, kết nối
các đối tác kinh doanh, tổ chức giáo dục và huấn luyện qua mạng cũng như thực
hiện các giao dịch điện tử trong phạm vi của một tổ chức. Thương mại điện tử bắt
đầu bằng việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và
mạng viễn thông vào mọi hoạt động của mình, từ bán hàng, marketing, thanh toán
đến mua sắm, sản xuất, đào tạo, phối hợp hoạt động với các nhà cung cấp trong
chuỗi cung ứng, với các đối tác, khách hàng,... khi đó thương mại điện tử phát
triển thành kinh doanh điện tử, công ty ứng dụng thương mại điện tử ở mức độ
cao được gọi là công ty điện tử. Như vậy, có thể hiểu kinh doanh điện tử là mô
hình phát triển của công ty khi tham gia thương mại điện tử ở mức độ cao và ứng
dụng công nghệ thông tin chuyên sâu trong mọi hoạt động của công ty.
Ngày nay, kinh doanh điện tử ngày nay phải được xem xét một
cách toàn điện tử “chu kỳ kinh doanh, tốc độ kinh doanh, toàn cầu hóa thị trường
và toàn cầu hóa quá trình sàn xuất, nâng cao năng suất, khác biệt hóa sản phẩm
và dịch vụ, tiếp cận khách hàng mới, chia sẻ kiến thức giữa các tổ chức nhằm đạt
được lợi thế cạnh tranh” (Lou Gerstner, IBM’s CEO).
1.4. Khái niệm
TMĐT: theo một số tổ chức quốc tế:
Theo UNCITAD (Ủy
ban Liên Hiệp quốc về Thương mại và Phát triển):
Thương mại điện tử bao gồm các hoạt động của công ty, theo
chiều ngang: “TMĐT là việc thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh bao gồm
marketing, bán hàng, phân phối và thanh toán (MSDP) thông qua các phương tiện điện
tử”.
Khái niệm này đã đề cập đến toàn bộ hoạt động kinh doanh, chứ
không chỉ giới hạn ở riêng lĩnh vực mua và bán, và toàn bộ các hoạt động kinh
doanh này được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử.
Khái niệm này được viết tắt bởi bốn chữ MSDP, trong đó:
M: Marketing (Có trang web, hoặc
xúc tiến thương mại qua Internet).
S: Sales (Có trang web có hỗ trợ
chức năng giao dịch, ký kết hợp đồng).
D: Distribution (Phân phối sản phẩm
số hóa qua mạng).
P: Payment (Thanh toán qua mạng
hoặc thông qua bên trung gian như ngân hàng).
Như vậy, đối với công ty, khi sử dụng các phương tiện điện tử
và mạng vào trong các hoạt động kinh doanh cơ bản như marketing, bán hàng, phân
phối, thanh toán thì được coi là tham gia thương mại điện tử.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, theo chiều dọc: thương mại điện
tử bao gồm các lĩnh vực:
I: Cơ sở hạ tầng cho sự phát triển
TMĐT (I).
M: Thông điệp (M).
B: Các quy tắc cơ bản (B).
S: Các quy tắc riêng trong từng
lĩnh vực (S).
A: Các ứng dụng (A).
Mô hình IMBSA này đề cập đến các lĩnh vực cần xây dựng và phải
có để phát triển TMĐT:
I: Infrastructure: Cơ sở hạ tầng công nghệ thông
tin và truyền thông.
Một ví dụ điển hình là dịch vụ Internet băng thông rộng
ADSL. Tại nước ta, theo thống kê năm 2015 của Vụ Thương mại điện tử, hơn 90%
công ty đã sử dụng dịch vụ này để truy cập Internet với tốc độ đủ cao để giao dịch
qua mạng. Suy cho cùng, nếu không phổ cập dịch vụ Internet thì không thể phát
triển thương mại điện tử được. Chính vì vậy, UNCTAD đưa ra lĩnh vực đầu tiên cần
phát triển chính là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, tạo lớp
vỏ đầu tiên cho TMĐT.
M: Message: Các vấn đề liên quan đến thông
điệp dữ liệu.
Thông điệp chính là tất cả các loại thông tin được truyền tải
qua mạng, qua Internet trong thương mại điện tử. Ví dụ như hợp đồng điện tử,
các chào hàng, hỏi hàng qua mạng, các chứng từ thanh toán điện tử... đều được
coi là thông điệp, chính xác hơn là “thông điệp dữ liệu”. Tại các nước và tại
Việt Nam, những thông điệp dữ liệu khi được sử dụng trong các giao dịch TMĐT đều
được thừa nhận giá trị pháp lý. Điều này được thể hiện trong các Luật mẫu của Liên
Hiệp quốc về giao dịch điện tử hay Luật TMĐT của các nước, cũng như trong Luật
Giao dịch điện tử của Việt Nam.
B: Basic Rules: Các quy tắc cơ bản điều chỉnh
chung về TMĐT: Chính là các luật điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến TMĐT
trong một nước hoặc khu vực và quốc tế.
Ví dụ: Ở Việt Nam hiện nay là Luật Giao dịch điện tử, Luật Công
nghệ thông tin. Trên thế giới có các Hiệp định khung về TMĐT của các khu vực
như EU, ASEAN,... Hiệp định về Công nghệ thông tin của WTO, về Bảo hộ sở hữu
trí tuệ, và về việc thừa nhận giá trị pháp lý khi giao dịch xuyên “biên giới”
quốc gia.
S: Sectorial
Rules/Specific Rules:
Các quy tắc riêng, điều chỉnh từng lĩnh vực chuyên sâu của TMĐT, như: chứng thực
điện tử, chữ ký điện tử, ngân hàng điện tử (thanh toán điện tử). Thể hiện dưới
khía cạnh pháp luật ở Việt Nam có thể là các nghị định chi tiết về từng lĩnh vực.
Hay các tập quán thương mại quốc tế mới như Quy tắc về xuất trình chứng từ điện
tử trong thanh toán quốc tế (e-UCP), hay quy tắc sử dụng vận đơn điện tử (của
Bolero).
A: Applications: Được hiểu là các ứng dụng TMĐT,
hay các mô hình kinh doanh thương mại điện tử cần được điều chỉnh, cũng như đầu
tư, khuyến khích để phát triển, trên cơ sở đã giải quyết được bốn vấn đề trên.
Ví dụ như: Các mô hình cổng TMĐT quốc gia (ECVN.gov), các sàn giao dịch TMĐT
B2B (như Vnemart.com) cũng như các mô hình B2C (golmart.com.vn, Amazon.com),
C2C (đấu giá Ebay.com), hay các website của các công ty XNK... đều được coi
chung là các ứng dụng TMĐT.
Theo EU (Liên minh
châu Âu): TMĐT
bao gồm các giao dịch thương mại thông qua các mạng viễn thông và sử dụng các
phương tiện điện tử. Nó bao gồm TMĐT gián liếp (trao đổi hàng hóa hữu hình) và
TMĐT trực tiếp (trao đổi hàng hóa vô hình). TMĐT cũng được hiểu là hoạt động
kinh doanh điện tử, bao gồm: mua bán điện tử hàng hóa, dịch vụ, giao hàng trực
tiếp trên mạng với các nội dung số hóa được; chuyển tiền điện tử - EET
(electronic fund transfer); mua bán cổ phiếu điện tử - EST (electronic share
trading); vận đơn điện tử - E B/L (electronic bill of lading); đấu giá thương mại
- Commercial auction; hợp tác thiết kế và sản xuất; tìm kiếm các nguồn lực trực
tuyến; mua sắm trực tuyến - Online procurement; marketing trực tiếp, dịch vụ
khách hàng sau khi bán...
Theo OECD (Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế):
TMĐT gồm các giao dịch thương mại liên quan đến các tổ chức
và cá nhân dựa trên việc xử lý và truyền đi các dữ kiện đã được số hóa thông
qua các mạng mở (như Internet) hoặc các mạng đóng có cổng thông với mạng mở
(như AOL).
TMĐT là việc làm kinh doanh thông qua mạng Internet, bán những
hàng hóa và dịch vụ có thể được phân phối không thông qua mạng hoặc những hàng
hóa có thể mã hóa bằng kỹ thuật số và được phân phối thông qua mạng.
Theo WTO:
Thương mại điện tử bao gồm việc quảng cáo, sản xuất, bán
hàng, phân phối sản phẩm, được giao dịch và thanh toán trên mạng Internet,
nhưng việc giao nhận có thể hữu hình hoặc giao nhận qua Internet dưới dạng số
hóa.
Theo AEC
(Association for Electronic Commerce):
TMĐT là việc kinh doanh có sử dụng các công cụ điện tử. Định
nghĩa này rộng, coi hầu hết các hoạt động kinh doanh từ đơn giản như một cú điện
thoại giao dịch đến những trao đổi thông tin EDI phức tạp đều là TMĐT.
Theo UNCITRAL (UN Conference for
International Trade Law), Luật mẫu về Thương mại điện tử (UNCITRAL Model Law on
Electronic Commerce): “Thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại
thông qua các phương tiện điện tử, không cần phải in ra giấy bất cứ công đoạn
nào của toàn bộ quá trình giao dịch”. Định nghĩa này giải thích tương đổi đầy đủ
và rõ ràng nhất.
“Thông tin” được hiểu là bất cứ thứ gì có thể truyền tải bằng
kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các file văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bảng
tính, các bản thiết kế, hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hóa đơn, bảng
giá, hợp đồng, hình ảnh động, âm thanh...
“Thương mại” được hiểu theo nghĩa rộng, bao quát mọi vấn đề
nảy sinh từ mọi mối quan hệ mang tính thương mại, dù có hay không có hợp đồng.
Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn ở các giao dịch
sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; đại
diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công
trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa
thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác
công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển,
đường không, đường sắt hoặc đường bộ.
Như vậy có thể thấy rằng phạm vi của thương mại điện tử rất
rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Việc mua bán hàng hóa và
dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng thương mại điện tử.
Tóm lại, theo nghĩa rộng, thương mại điện
tử gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao
nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện
tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua
sắm công cộng, marketing trực tuyến tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán
hàng. Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ
như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ
như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền
thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị
ảo). Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức
mua sắm của con người.
Như vậy Nhà nước, khu vực tư nhân, cộng đồng những nhà
chuyên môn, những người tiêu dùng - tất cá đều cho rằng thương mại điện tử là
phương thức cách mạng trong việc thực hiện giao dịch thương mại ngày nay.
Thương mại điện tử là một quá trình đang phát triển mạnh mẽ và tiến hóa liên tục.
Trong giáo trình này, thuật ngữ “thương mại điện tử” được hiểu
theo nghĩa rộng, là tất cả các hoạt động kinh doanh nhằm tạo được lợi thế cạnh
tranh cho các công ty trên thị trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay. Nghĩa là,
thương mại điện tử (e-commerce) được xem như đồng nhất với kinh doanh điện tử
(e-business). Tiêu chí của người viết quyền “Thương mại điện tử” này là để thực
hành ứng dụng. Vì thế, phạm vi nghiên cứu của quyển sách này khá rộng, bao trùm
nhiều vấn đề từ các mô hình đến các phương cách thực hành ứng dụng kinh doanh
điện tử trong môi trường kinh doanh điện tử thực tế ở Việt Nam.
Mục đích của cuốn sách này là mô tả TMĐT được tiến hành và
quản trị ra sao, và từ đó chỉ ra những thuận lợi, khó khăn và những lợi ích, những
vấn đề, những rủi ro của TMĐT. Cuốn sách này được viết dưới góc độ thực hành quản
trị. TMĐT là một lĩnh vực liên ngành, vì thế mà nó cần dành được sự quan tâm của
các nhà quản trị và các chuyên gia trong mọi lĩnh vực chức năng của kinh doanh.
Tất cả mọi người dù đang làm việc trong lĩnh vực chính trị, giáo dục, y tế và
các lĩnh vực khác nữa vẫn thấy có ích khi nghiên cứu TMĐT.
Ngày nay, TMĐT và kinh doanh điện tử đang trong giai đoạn củng
cố mà trong đó sự quan tâm đến công nghệ và ý tưởng mới luôn được đi kèm với sự
chú ý đặc biệt về chiến lược, việc thực hiện và lợi ích. Đa số mọi người đều nhận
thấy rằng kinh doanh điện tử có hai phần, nó không chỉ là về công nghệ mà còn về
thương mại.
Efraim Turban và David King (2012) đã xem xét thương mại điện
tử theo nghĩa rộng là kinh doanh điện tử (e-business) dưới các góc độ như sau:
Hình 1.1: Mức độ số hóa của
thương mại điện tử
(Source: E-Commerce, Efraim
Turban, David King, 2012, page 39, Prentice Hall)
• Xem xét từ mức độ số
hóa: Thương mại điện tử có thể thực hiện dưới nhiều hình thức phụ thuộc vào
mức độ số hóa của các sản phẩm/dịch vụ mua bán, quá trình mua bán, vận chuyển
và giao nhận hàng hóa. Hình 1.1. cho
thấy mức độ số hóa của thương mại điện tử. Một sản phẩm có thể là sản phẩm vật
chất hoặc sản phẩm số hóa; một tổ chức có thể là một cơ quan cụ thể hoặc một cơ
quan số hóa; và một quá trình cũng có thể là quá trình vật chất hay số hóa. Điều
này tạo nên tám hình khối, mỗi hình khối có ba khía cạnh. Trong thương mại truyền
thống, tất cả các khía cạnh này đều là hữu hình (Hình khối phía dưới bên trái).
Trong thương mại điện tử thuần túy, tất cả các khía cạnh này đều là số hóa (Hình
khối phía trên bên phải). Tất cả các hình khối còn lại đều là hỗn hợp của
thương mại truyền thống và thương mại điện tử thuần túy; tùy thuộc vào mức độ số
hóa của các hoạt động trong các giao dịch mà có thể xem đó là giao dịch thương
mại truyền thống hay giao dịch thương mại điện tử. Chẳng hạn như, mua hàng
thông qua mạng nhưng việc giao hàng lại được thực hiện bằng phương tiện vận tải
truyền thống thì đó không phải là thương mại điện tử thuần túy nhưng nếu việc
mua hàng, giao nhận hàng và thanh toán đều được số hóa thì đó là thương mại điện
tử thuần túy.
• Xem xét từ góc độ
các lĩnh vực kinh doanh: Thương mại điện tử diễn ra ở hầu khắp các lĩnh vực
kinh doanh, thúc đẩy các lĩnh vực đó phát triển đồng thời tạo nên bản sắc mới của
hoạt động kinh doanh trên phạm vi nền kinh tế thế giới.
• Từ góc độ kinh doanh
viễn thông: Thương mại điện tử là việc chuyển giao thông tin, sản phẩm hay
dịch vụ hoặc thanh toán thông qua điện thoại, mạng máy tính hoặc bất kỳ phương
tiện điện tử nào khác.
• Từ góc độ quy trình
kinh doanh: Thương mại điện tử là việc ứng dụng công nghệ để tự động hóa
các giao dịch kinh doanh và các dòng chu chuyển sản phẩm.
• Từ góc độ kinh doanh
dịch vụ: Thương mại điện tử là phương tiện để các công ty, người tiêu dùng
và nhà quản trị cắt giảm chi phí dịch vụ trong khi vẫn nâng cao chất lượng hàng
hóa, tăng tốc độ chuyển giao dịch vụ.
• Từ góc độ hỗ trợ trực
tuyến: Thương mại điện tử cung cấp khả năng mua và bán sản phẩm và thông
tin trên Internet và dịch vụ trực tuyến khác.
II. Đặc điểm của thương
mại điện tử
Thứ nhất, TMĐT là
một phương thức giao dịch thương mại sử dụng các phương tiện điện tử (PTĐT) để
tiến hành các giao dịch thương mại. Việc sử dụng các PTĐT cho phép các bên thực hiện các hoạt động
mua, bán, chuyển giao, trao đổi các nguồn “thông tin” về sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ... dễ dàng. Các nguồn “thông tin” được hiểu là bất cứ thứ gì có thể truyền
tài bằng kỹ thuật điện tử như thư điện tử, thông điệp điện tử, các tập tin văn
bản (text-based file), các cơ sở dữ liệu (database), các bảng tính (spreadsheet),
các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử (computer-aid design: CAD), các hình đồ
họa (graphical image), quảng cáo, chào hàng, hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh
động (flash), video clip, âm thanh, v.v... Việc trao đổi “thông tin” qua mạng
máy tính và Internet giúp các bên tham gia giao dịch cung cấp, truyền tải các nội
dung giao dịch và không cần phải in ra giấy trong bất kỳ công đoạn nào của toàn
bộ quá trình giao dịch. Ví dụ như: Trang mạng Saigoncom.vn kinh doanh rất nhiều
sản phẩm như văn phòng phẩm, băng đĩa nhạc... nhưng chủ yếu là các loại sách và
hoàn toàn không có bất cứ một cửa hàng vật lý nào. Việc bán sách của công ty được
thực hiện trực tiếp qua mạng Internet, hoạt động cung ứng được thực hiện trên
cơ sở phối hợp trực tiếp giữa Saigoncom.vn với các nhà sách lớn mà thôi.
Thứ hai, TMĐT có
liên quan mật thiết với thương mại truyền thống (TMTT), và phụ thuộc sự phát
triển mạng máy tính và Internet. TMĐT có liên quan mật thiết với TMTT; các giao dịch TMĐT được
thực hiện trên cơ sở các giao dịch TMTT, nhiều công việc và quá trình giao dịch
thương mại điện tử có liên quan đến thương mại truyền thống. Tuy nhiên, khác với
các giao dịch TMĐT được tiến hành trên giấy, qua điện thoại, những người đưa
tin, bằng xe tải, máy bay và các phương tiện khác, các giao dịch TMĐT chủ yếu
được tiến hành trên các mạng máy tính điện tử. Vì thế, giao dịch TMĐT phụ thuộc
sự phát triển mạng máy tính và Internet. Tuy nhiên, khi xây dựng các mô hình
giao dịch trên mạng máy tính và Internet, một số yếu tố, chủ thể, quy trình
kinh doanh trong TMTT có thể được điều chỉnh, những ưu điểm và lợi ích của CNTT
được ứng dụng trong TMĐT cho phép giao dịch TMĐT linh hoạt hơn (có thể thực hiện
24/7, phản hồi nhanh chóng...) đồng thời loại bỏ những hạn chế của TMTT (cản trở
vật lý, địa lý, thông tin...).
Thứ ba, TMĐT được
nghiên cứu gồm bốn nhóm hoạt động chủ yếu là mua, bán, chuyển giao và trao đổi
các đối tượng sản phẩm, dịch vụ và thông tin. Ngoài ra, nó còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ các hoạt động
trên như: marketing, quảng cáo, xúc tiến trên mạng, thanh toán điện tử, an toàn
mạng giao dịch, đấu giá, dịch vụ hỗ trợ CNTT, hỗ trợ việc chào bán, cung cấp
các dịch vụ khách hàng hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thông tin,
liên lạc giữa các đối tác kinh doanh.
Thứ tư, “thương mại
điện tử” là thuật
ngữ mang tính lịch sử. Không thể có định nghĩa duy nhất về TMĐT bởi các công
nghệ mới thường xuyên ra đời và được khai thác trong kinh doanh. Và ngay đối với
những công nghệ hiện tại, chúng ta cũng chưa chắc đã khai thác và ứng dụng hết
những khả năng mà nó mang lại.
Một cách chi tiết hơn so với các hoạt động thương mại truyền
thống, thương mại điện tử có một số điểm khác biệt cơ bản như sau:
Không cần tiếp xúc
trực tiếp và biết nhau từ trước:
Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không
tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực
tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc
vật lý như chuyển tiền, séc hóa dơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn
thông như: fax, telex,... chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy
nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để
chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.
Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia từ các
nơi xa xôi “đèo heo hút gió” đến ngay các trung tâm đô thị lớn, tạo điều kiện
cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị
trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải quen biết với nhau từ
trước.
Phạm vi hoạt động:
Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự
tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện
trong một thị trường không biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại
điện tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu.